Tên di sản : Điện Càn Long + Bia nhà Lê
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 225/QĐ – CT
Giới thiệu
Vài nét về tiểu sử, lai lịch dòng họ Phạm – Lê ở Qủa Nhuệ xưa (Nam Giang nay):
Họ Phạm - Lê là tên ghép của họ Lê và họ Phạm mà thành. Đây chính là hai dòng họ rất thế lực và nổi tiếng ở thế kỷ XVI - XVII.
Ông tổ của họ Lê là Lê Kính quê ở xã Quan Trung, huyện Đông Thành, trấn Nghệ An (nay là xã Yên Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An), sinh năm Đinh Hợi, mất năm Kỷ Mão (1669) thọ 73 tuổi. Ông đậu Đệ tam đồng tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Thìn, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) đời Lê Thần Tông, làm quan đến chức Công Bộ Thượng Thư, tước hầu, khi mất được thăng hàm Thái Bảo tước Thạc Quận Công.
Đời thứ 2 là ông Lê Hiệu sinh năm Đinh Tỵ (1617) đậu Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, năm 27 tuổi (Hoàng Giáp) khoa Quý Mùi, niên hiệu Phúc Nguyên niên (1643) đời Lê Thần Tông. Ông làm quan trải qua các chức: Hình Bộ Thượng Thư, Lễ Bộ Thượng Thư, Binh Bộ Thượng Thư, tước hầu sau thăng lên đến chức Tham Tụng Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu, Tá Lý Công Thần, Thượng Trụ Quốc. Từng được cử đi sứ thay mặt nhà vua đối đáp với triều đình nhà Thanh, được người Bắc Quốc nể phục. Khi qua đời, vua sắc phong là: Nghiêm Minh, Hùng Đoán, Thông Đạt, Đại vương...
Hai cha con làm quan cùng triều là điều hiếm thấy trong lịch sử. Cả hai đều lần lượt làm Thượng Thư các Bộ Công, Bộ Hình, Bộ Lễ rồi lên Tham Tụng, được phong Tước Vương, Tước Công, Tước Hầu. Đây là chức tước cao nhất thời Lê Trung Hưng.
Ông tổ của Họ Phạm là Phạm Đình Kiên người xã Quả Nhuệ, huyện Lôi Dương, trấn Thanh Hóa (nay là xã Nam Giang, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá) lấy bà Chu Thị Loan người xã Thanh Nghĩa, huyện Văn Giang (tỉnh Bắc Ninh) sinh ra hai người con gái.
Người con đầu là vợ tể tướng Lê Hiệu, con trai của ông Lê Kính, người thứ hai là bà Phạm Thị Ngọc Huỳnh là quý phi của vua Lê Thần Tông. Bà sinh ngày 22/4 năm Ất Hợi, niên hiệu Đức Long thứ 7 (1635) đời vua Lê Thần Tông, vào cung năm 19 tuổi (1654) và năm sau sinh ra Huyền Tông Mục Hoàng Đế. Bà tuy giàu sang, phú quý hết mực nhưng có nếp sống cần kiệm, dịu dàng, khéo léo. Đó là nhờ sự giáo dục của một gia đình, dòng họ quyền thế và nền nếp từ ngày còn bé. Lịch sử ghi chép về bà là người tài sắc vẹn toàn, rất đáng là bậc mẫu nghi thiên hạ.
Theo bài văn bia khắc trên gỗ để ở bàn thờ tổ của họ Phạm - Lê soạn, khắc vào ngày 3/6 năm Thành Thái thứ 12 triều Nguyễn - 1900) đã giải thích rất rõ ràng về việc đổi họ Lê thành họ Phạm - Lê như sau: "Vì ông tổ ngoại là Phạm Đình Công thiếu người thờ tự, cho nên bà Hoàng Thái Hậu bàn với phu nhân quan tể tướng cho người con trai thứ của phu nhân về nguyên quán thôn Kim Bảng đổi theo họ mẹ, rồi phong cho cháu ngoại Hoàng tộc để chuyên chăm lo việc hương hoả thờ phụng lâu dài về sau đối với ông ngoại và Hoàng Thái Hậu. Ông sinh ra được 4 người con trai chia làm 4 chi họ. Người chị trường sinh được 3 con trai, người con cả làm quan đến chức thừa chánh xứ tước phong là Quả xuân hầu. Quanh chánh xứ sinh được 12 người con. Ông tổ họ ta là Phạm Vinh".
Như vậy, qua các nguồn tài liệu sử sách, bia ký, chúng ta biết chắc chắn là ở đất Quả Nhuệ xưa (bây giờ là Kim Bảng, xã Nam Giang, huyện Thọ Xuân) ngoài Điện Càn Long - nơi thờ hai vị vua Lê Thần Tông, Lê Huyền Tông và bà Hoàng Thái Hậu Phạm Thị Ngọc Huỳnh cùng các vị tiên tổ dòng họ Phạm - Lê còn có hai khu Lăng mộ của Lê Huyền Tông và Hoàng Thái Hậu Phạm Thị Ngọc Huỳnh. Cách đây hơn 1 thập kỷ, qua tình cờ của việc sản xuất, nhân dân đã phát hiện ra mộ bà Hoàng Thái Hậu. Hiện tại mộ đã được yên vị trở lại. Một số đồ phát hiện trong mộ như chuỗi ngọc, quạt giấy...đã được cất giữ để thờ pbụng tại nơi thờ ở khu vực Điện Càn Long.
Với vị thế của dòng họ Phạm - Lê và sự quan tâm đặc biệt của bà Hoàng Thái Hậu Phạm Thị Ngọc Huỳnh mà vùng đất Kim Bảng - Quả Nhuệ xưa ở thế kỷ XVII đã được thừa hưởng nhiều ân huệ. Và Điện Càn Long, cùng ngôi chùa Cẩm Long do đích thân bà Hoàng Thái Hậu họ Phạm điều hành chính là hai công trình kiến trúc nghệ thuật bề thế, quy mô vô cùng giá trị ở thế kỷ XVII, rất tiếc đều bị phá dỡ sau ngày hoà bình lập lại.
Riêng Điện Càn Long - một Điện miếu thờ vua và Hoàng Thái Hậu theo thiết chế cung đình cũng được thờ phụng rất nghiêm minh, chặt chẽ.
Theo văn bia "Công đức Trường Lưu" thì "Điện miếu tôn thờ gọi là Điện Càn Long. Nhà vua (tức Lê Gia Tông) ra sắc chỉ, cho phép bản, xã (xã quê ngoại nhà vua) giữ chức chấp thủ (chức quản lý Điện miếu). Cấp cho xã Thanh Nghĩa quê ngoại nhà vua thờ phụng ngày sinh, ngày kỵ, hương hoả 4 mùa, tôn nghiêm mãi mãi để tỏ rõ sự tôn kính.
Khi Lăng và Điện đã hoàn tất, năm tháng thờ phụng là linh thiêng. Đối với các tiên tổ bên họ ngoại cũng đều được quy về Điện miếu để phối thờ việc thờ phụng như vậy Hoàng Thái Hậu đã lo xa chu đáo từ trước".
Hiện tại, dòng họ Phạm Lê ở Kim Bảng còn giữ được hai đạo sắc phong của nhà vua cho ông Phạm Trừng vì đã có công chủ trì việc xây dựng Điện Càn Long. Nội dung hai bản sắc phong như sau:
Sắc phong 1: "Sắc phong cho ông Nhuệ Trung Phạm Trừng ở thôn Kim Bảng, xã Quả Nhuệ Thượng, huyện Lôi Dương người kế nghiệp phụng thờ tông tộc bên ngoại nhà vua, đã có công chủ trì việc xây dựng Điện Càn Long, công việc hoàn tất, nay đặc biệt ban thưởng cho chức Tả Trung Doãn, phong cho Tước Bé, làm các chức Quan Trung Trinh Đại Doãn, Nhuệ Trung Bé, Khuông Mỹ Doãn.
Ông Phạm Trừng khâm phụng sắc chỉ. Năm Cảnh Hưng thứ 22 ngày 7 tháng 4 (1761)
Sắc phong 2: "Sắc phong cho ông Quả Xuân Phạm Trừng ở xã Quả Nhuệ Thượng, huyện Lôi Dương. Người được kế nghiệp giám thủ phụng thờ tông tộc bên ngoại nhà vua đã có công chủ trì việc xây dựng Điện Càn Long, công việc hoàn tất, nay đặc ân thưởng cho chức quan quan Thừa Sứ, phong cho Tước Hầu khá khen là một quan đại phu tốt và cho làm quan Tán Tự Thừa Chính Xứ ở xứ Lạng Sơn, phong tước là Cảo Xuân Hâu.
Năm Cảnh Hưng thứ 32 ngày 7 tháng 4 (1771)
Những hiện vật có trong di tích:
Bia đá "Công đức Trường Lưu": Đây là tấm bia đá 4 mặt dựng đứng trên một chân đế cũng bằng đá. Mái bia hình mai luyện (hình rùa) rộng 0,48m. Xung quanh các mặt bia được trang trí bằng các đường gờ chỉ, có tác dụng làm nổi bật phần văn bia. Bia được soạn, khắc vào năm Chính Hoà thứ 7 (1686). Theo nội dung văn bia được dựng lên để muôn đời ghi nhớ" do nhóm danh sĩ nổi tiếng đương thời soạn theo lệnh của nhà vua kế vị. Có thể nói: Đây là một hạng mục di tích gốc còn lại rất nguyên vẹn đã giúp chúng ta biết một cách khá đầy đủ về xuất sứ ra đời của Điện Càn Long, về bà Hoàng Thái Hậu Phạm Thị Ngọc Huỳnh (quý phí của Lê Thần Tông và mẹ của Lê Huyền Tông) cũng như về dòng họ Ph��m - Lê đầy quyền thế hồi thế kỷ XVII ở vùng đất Quả Nhuệ xưa. Khối bia đá 4 mặt này cũng chính là một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc đá điển hình mà ở đó từ sự bài trí, bố cục đến nét khắc hình tinh xảo và hài hoà, cân đối, đồng thời đã tạo sự bề thế, uy nghiêm cho khu Điện.
Đã trải qua hơn 300 năm (1686 - 2003), nét chữ trên bia vẫn còn sắc nét. Đây chính là bằng chứng sinh động để chứng minh sự hiện hữu của khu Điện miếu thờ vua và Hoàng Thái Hậu thời Lê Trung Hưng. Vì vậy, khối bia đá cũng có giá trị như một di tích cần được công nhận, bảo vệ để mãi mãi nhớ về những sự kiện và nhân vật lịch sử mà sử sách đã từng nhắc đến.
Hai pho chó đá thời Lê cao 0,60m, rộng 0,25m, gồm 1 con đục, 1 con cái, tư thế ngồi chầu. Con cái tai cụp, con đực tài xoè. Cả hai con đều đeo quả lục lặc.
Nhiều chân tảng đá rộng 0,55 x 0,55.
Hàng trăm viên ngói mũi hài rộng 22cm, dài 30cm và loại 20cm x 26cm.
Gạch thời Lê.
Sáu Văn khắc trên gỗ để ở bàn thờ Điện Càn Long của họ Phạm Lê.
Hai sắc phong cho ông Phạm Trừng - người có công trong việc xây dựng Điện Càn Long.
Ngoài ra còn nhiều hiện vật khác còn chưa tập kết về khu vực Điện như chiếc bể đá hình chữ nhật đang để ở sân của UBND xã Nam Giang. Đây cũng là tác phẩm nghệ thuật điêu khắc rất có giá trị, mỗi mặt bên là một bức tranh trang trí vô cùng sinh động. Hiện vật này cũng cần sớm trả về cho di tích Điện Càn Long.